HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG,
ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
CHUYÊN ĐỀ
RÈN LUYỆN TÁC PHONG CÁN BỘ ĐOÀN SÁNG TẠO, TRÁCH NHIỆM, TIÊN PHONG, GƯƠNG MẪU, SÂU SÁT CƠ SỞ
THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH
(Tài liệu dành cho cán bộ đoàn năm 2018,
ban hành kèm theo Công văn số 724 -CV/TWĐTN-BTG ngày 14/5/2018
của Ban Bí thư Trung ương Đoàn)
----------
- Xây dựng phong cách làm việc khoa học, tự chủ, độc lập suy nghĩ, không ngừng sáng tạo
Theo Hồ Chí Minh, cán bộ làm việc gì cũng phải có mục đích và kế hoạch rõ ràng, thiết thực. Muốn có kế hoạch khoa học thì người cán bộ phải “xét kỹ hoàn cảnh mà sắp đặt công việc cho đúng. Việc chính, việc gấp thì làm trước. Không nên luộm thuộm, không có kế hoạch, gặp việc nào, làm việc ấy”[1]. Hết sức tránh chuyện vạch ra “Chương trình công tác thì quá rộng mà kém thiết thực”[2] và căn bệnh “đánh trống bỏ dùi” gây lãng phí tiền của, nhân lực và thời gian của nhân dân.
Phong cách làm việc khoa học là phải biết quý trọng thời gian, biết giờ nào làm việc ấy và có năng lực giải quyết công việc một cách tốt nhất trong một thời gian ngắn nhất. Người từng nói: “Ai đưa vàng bạc vứt đi, là người điên rồ. Thì ai đưa thời giờ vứt đi, là người ngu dại”[3]. Người cán bộ phải biết tiết kiệm thời gian của mình nhưng cũng phải biết tiết kiệm thời gian cho người khác. Cách tốt nhất là tập trung giải quyết dứt điểm từng công việc; không ôm đồm, làm quá nhiều việc, nhiều việc không dứt điểm, không hiệu quả. Người giải thích: “Đích nghĩa là nhằm vào đó mà bắn. Nhiều đích quá thì loạn mắt, không bắn trúng đích nào”[4].
Phong cách làm việc khoa học yêu cầu người cán bộ giải quyết công việc trên cơ sở dữ liệu khách quan, dựa trên nền tảng thực tế để lựa chọn ra phương án khả thi nhất và phương án ấy phải đặt trong tổng thể chiến lược lâu dài. Không được rơi vào “Bệnh cận thị - không trông xa thấy rộng. Những vấn đề to tát thì không nghĩ đến mà chỉ chăm chú những việc tỉ mỉ”[5]. Người cán bộ không được vì cái lợi nhỏ trước mắt mà làm tổn hại đến lợi ích to lớn, lâu dài. Tầm nhìn - đó chính là phẩm chất của người có tư duy khoa học và có cách làm việc khoa học.
Theo Hồ Chí Minh, phong cách làm việc khoa học đòi hỏi người cán bộ phải có cách đánh giá đúng người, đúng việc, sắp xếp công việc cho hợp lý; lại phải biết cách kiểm tra, giám sát công việc và cấp dưới một cách hiệu quả, qua đó thấy được việc thi hành đường lối, nghị quyết của Đảng như thế nào và cần điều chỉnh cái gì… Người nói: “tình hình khách quan thay đổi hàng giờ hàng phút, một chủ trương của ta hôm nay đúng, hôm sau đã không hợp thời, nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng hành vi của ta để bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ không theo kịp tình thế”[6]. Kiểm tra còn có tác dụng phân loại, đánh giá cán bộ, vì “Có kiểm tra… mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”[7]. Cán bộ lãnh đạo làm việc khoa học, chặt chẽ thì cấp dưới không thể “qua mặt”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng tới kinh nghiệm của bản thân và của người khác, nhưng Người cũng lưu ý là không nên có lối suy nghĩ bắt chước theo người khác. Sáng tạo trong tư duy Hồ Chí Minh là ở tinh thần kế thừa những cái tốt của người khác. Một số người cho đó là sự "vượt gộp", tức là gộp tất cả những gì là tốt đẹp, tinh túy đã có trước bản thân mình để vượt lên phía trước nhằm phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Điều này đã được nhiều nhà tư tưởng nêu lên từ lâu: thế hệ sau phải biết đứng lên vai những người khổng lồ đi trước thì xã hội mới phát triển được.
Học tập và vận dụng phong cách Hồ Chí Minh vào trong việc xây dựng phong cách làm việc khoa học, tự chủ, độc lập suy nghĩ, không ngừng sáng tạo của cán bộ đoàn, cần chú ý:
- Người cán bộ đoàn muốn xây dựng phong cách suy nghĩ, làm việc tự chủ, độc lập suy nghĩ, sáng tạo, trước hết phải xuất phát từ tình hình thực tế. Tình hình đó thể hiện trên mấy điểm: (1) Tình hình thế giới; (2) Tình hình trong nước; (3) Hoàn cảnh cụ thể của địa phương, ngành, cơ quan, đơn vị, tổ chức Đoàn nơi mình phụ trách. Mọi suy nghĩ, hành động sáng tạo của người cán bộ đoàn phải đặt trên cái nền vững chắc là hiện thực của cuộc sống. Nếu thoát ly thực tại của cuộc sống thì sự sáng tạo đó trong suy nghĩ và hành động có thể sẽ trở thành viển vông, duy ý chí.
- Suy nghĩ và hành động sáng tạo của người cán bộ đoàn cần đặt trong yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng của phong trào thanh niên Việt Nam hiện nay. Điều quan trọng là phải xác định được yêu cầu, nhiệm vụ của Đoàn Thanh niên đối với sự nghiệp cách mạng trong bối cảnh hiện nay; cần nhận thức rõ mục tiêu, lý tưởng cách mạng, tích cực rèn đức luyện tài, lối sống chuẩn mực, giữ vững tính tiên phong, xung kích, tình nguyện… Mọi sự sáng tạo đều không được thoát ly khỏi yêu cầu thực tế của phong trào cách mạng, không được “sai hướng”. Hướng ở đây được hiểu là chủ trương, đường lối, nghị quyết, chỉ thị của Đảng (các cấp) và nghị quyết của tổ chức Đoàn.
- Sức sáng tạo của mỗi người không phải là cái từ bên ngoài đưa vào, mà chính là phong cách làm việc do chính bản thân người cán bộ đoàn xây dựng nên. Người cán bộ đoàn phải thường xuyên học tập nâng cao trình độ về mọi mặt, đặc biệt là những tri thức liên quan đến lĩnh vực mà bản thân mình phụ trách, công tác, trong đó có lý luận, nghiệp vụ, kỹ năng công tác thanh niên; đồng thời, phải luôn luôn tu dưỡng đạo đức cách mạng theo gương Chủ tịch Hồ Chí Minh và các vị tiền bối cách mạng khác.
Sở dĩ Chủ tịch Hồ Chí Minh có tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo là vì Người có phẩm chất tốt và năng lực dồi dào, mà biểu hiện ở hai điểm chủ yếu là bản lĩnh cao cường và trí tuệ mẫn tiệp. Có được kết quả đó là do cả một quá trình học tập, tu dưỡng, rèn luyện cả cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã học tập suốt đời, học ở mọi lúc, mọi nơi để có một trí tuệ sáng suốt. Chủ tịch Hồ Chí Minh tự làm chủ cuộc sống của mình và luôn luôn chú trọng việc rèn luyện, tu dưỡng đạo đức cách mạng. Do đó, Người có được bản lĩnh chính trị vững vàng trong xử lý mối quan hệ đối với những người chung quanh, với công việc và với bản thân mình trong cuộc sống.
- Tạo lập phong cách diễn đạt gọn, rõ, có căn cứ cụ thể, hấp dẫn
Diễn đạt của con người chủ yếu thông qua ngôn ngữ (nói, viết) và thông qua cả cử chỉ (hành động). Học tập phong cách Hồ Chí Minh, người cán bộ đoàn cần chú ý một số nội dung sau đây:
3.1. Về ngôn ngữ nói và viết
Phải nói và viết bằng ngôn ngữ bình dân để mọi người đều hiểu được, tức là chuyển tải đúng và đầy đủ những thông tin cần đem đến cho mọi người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập bốn vấn đề người nói và viết phải xác định thật rõ: nói và viết cái gì; nói và viết cho ai; nói và viết để làm gì; nói và viết như thế nào. Người hay phê bình những cán bộ, đảng viên có “bệnh hay nói chữ, ham dùng chữ, bệnh sính dùng chữ nước ngoài”, cứ hay nói và viết “tràng giang đại hải”, “giây cà ra giây muống”, “thao thao bất tuyệt”, dùng những ngôn từ không sát hợp đối tượng, nội dung không phù hợp, nghĩa là không chú ý tới người nghe và người xem, không quan tâm họ có hiểu hay không. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói tiếng nói của nhân dân, học tiếng nói của nhân dân, hay dùng ca dao, tục ngữ (trên thế giới nhiều người cho rằng, tục ngữ chính là sự thông thái của nhân dân).
3.2. Về ngôn ngữ “hành động”
Đây là thứ "ngôn ngữ đặc biệt" trong phong cách diễn đạt của mỗi người. Chủ tịch Hồ Chí Minh khác với rất nhiều danh nhân khác trên thế giới, Người không để lại nhiều pho sách lớn, những “tập đại thành” gồm những bài nói, bài viết của mình. Cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh mới chính là một pho sách rất lớn, có thể nói là đồ sộ, biểu đạt toàn bộ tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người.
Cán bộ đoàn cần đề phòng và chống các biểu hiện sai lệch giữa nói và làm như: nói thì nhiều nhưng làm thì ít; nói thì hay nhưng làm thì dở; nói mà không làm; nói một đằng làm một nẻo. Những ai có phong cách này thường gây phản cảm cho những người xung quanh, nếu là người cán bộ thì đặc biệt tai hại.
Nói không đi đôi với làm thực sự là đạo đức giả. Với hành động thường ngày của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh không muốn dạy ai cả, cũng không phải là hành động thị phạm. Người làm việc một cách tự nhiên, thật lòng, như hít thở khí trời, không làm ra vẻ ta đây, ra oai, nhưng tự những hành động đó toát lên những thông điệp đến với mọi người. Từ thuở hàn vi đến lúc làm Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh luôn cho thấy sự mẫu mực trong phong cách làm việc, công tác, cuộc sống sinh hoạt đời thường ăn, mặc, ở…
- Xây dựng phong cách ứng xử đúng đắn
Phong cách ứng xử của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lưu lại dấu ấn đặc biệt sâu sắc cho người cùng thời và các thế hệ người Việt Nam yêu nước về sau. Đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh, nói đến phong cách ứng xử là chúng ta nói đến phong cách ứng xử của một nhà văn hóa kiệt xuất, nhưng rất giản dị, đời thường, dễ học, dễ làm theo.
Người cán bộ đoàn hiện nay học tập phong cách Hồ Chí Minh để xây dựng phong cách ứng xử cần chú ý những nội dung sau:
4.1. Thành tâm, thật lòng
Đây là một điểm đầu tiên đáng chú ý trong phong cách ứng xử mà mọi người nói chung và cán bộ đoàn nói riêng cần học tập ở Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là ứng xử thành tâm, thật lòng với mọi người, bất kể đó là người Việt Nam hoặc người nước ngoài, bất kể người đó thuộc giai tầng nào, giới nào, người có chính kiến như thế nào, người đó có quá khứ hay hiện tại ra sao. Thật tâm, tấm lòng thành - điều này ở Chủ tịch Hồ Chí Minh ứng xử với mọi người cũng là điều Người học được từ những người xưa như “kỷ sở bất dục, vật thi ư nhân”, nghĩa là điều gì mà bản thân mình không muốn thì đừng có làm cho người khác.
4.2. Yêu quý, tôn trọng con người, có lòng khoan dung
Người cán bộ đoàn học tập ở Chủ tịch Hồ Chí Minh là học tập sự ứng xử dựa trên cơ sở của tình người, yêu thương con người, là lòng nhân đạo, tính nhân văn, sự khoan dung, độ lượng trong hành xử ở cuộc sống. Giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội - giai cấp, cuối cùng là để giải phóng con người.
Ứng xử phải dựa trên tình thương yêu, quý trọng con người trước hết dành cho những người bị áp bức, bóc lột, những người cùng khổ, những người dễ bị tổn thương trong xã hội. Ở đâu và lúc nào Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có tình thương sâu đậm đối với các cụ già, em nhỏ, đặc biệt có tư tưởng giải phóng phụ nữ, có phong cách ứng xử văn hoá đặc biệt đối với phụ nữ.
Với tư tưởng giải phóng con người, yêu thương con người, khoan dung, độ lượng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giao tiếp, ứng xử với nhiều người trong cuộc sống, và lúc nào cũng vậy, Người để lại ấn tượng sâu đậm. Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng giống như quan niệm đúng đắn của các tổ chức xã hội tiến bộ hiện nay trên thế giới, khi cho rằng, phát triển con người là sự phát triển bao gồm tất cả các khía cạnh trong cuộc sống của mọi cá nhân, từ tình trạng sức khoẻ, tới đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá của con người; rằng, phát triển con người theo những mục tiêu đó, là cái đích cuối cùng, phát triển kinh tế-xã hội chỉ là một phương tiện; rằng, mục tiêu cơ bản của phát triển là tạo ra một môi trường khuyến khích con người được hưởng cuộc sống lâu dài, khoẻ mạnh, hạnh phúc, tự do và sáng tạo. Đó chính là tính toàn diện của sự phát triển. Chính điều này phù hợp với cách tính về chỉ số phát triển con người (HDI) của Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) - kết hợp các chỉ số cơ bản về y tế, giáo dục, tuổi thọ, mức sống, chứ không chỉ là sự tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc nội (GDP).
- Xây dựng phong cách nêu gương
Theo Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên đều phải làm gương trong mọi công việc, từ nhỏ đến lớn, thể hiện thường xuyên về mọi mặt; phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nói phải đi đôi với làm. Người yêu cầu tất cả cán bộ, đảng viên đều phải nêu gương về đạo đức. Trước hết, mình phải tự làm gương, cán bộ “gắng làm gương trong anh em, và khi đi công tác, gắng làm gương cho dân”[8].
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, muốn nêu gương được thì nói phải đi đôi với làm. Nói đi đôi với làm không chỉ là một chuẩn mực trong đạo đức truyền thống mà còn là chuẩn mực đạo đức công vụ tối thiểu. Với cán bộ, đảng viên, sự thống nhất chặt chẽ giữa nói và làm, giữa đạo đức và nêu gương đạo đức cần đạt tới sự nhất quán trong công việc và trong đời sống riêng, giữa đạo đức người lãnh đạo và đạo đức đời thường. Địa vị càng cao, uy tín càng lớn, càng phải ra sức hoàn thiện về đạo đức, thống nhất giữa nói và làm. Người đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải làm kiểu mẫu trong công tác và lối sống, trong mọi lúc, mọi nơi, nói phải đi đôi với làm để quần chúng noi theo.
Việc nói đi đôi với làm mang lại cho quần chúng lòng tin và sự tôn trọng đối với người cán bộ, do đó, người cán bộ dễ dàng thực thi quyền lãnh đạo của mình. Người phê phán những cán bộ “Chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Nhưng một việc gì thiết thực cũng không làm được”[9]. Nhân dân không bao giờ tin cậy những cán bộ nói mà không làm, nói nhiều làm ít, nói hay làm dở, nói một đàng làm một nẻo. Muốn rèn luyện được phong cách nói đi đôi với làm, người cán bộ phải thường xuyên tự kiểm điểm, soi xét chính mình, đồng thời phải khuyến khích cấp dưới và quần chúng nhận xét, phê bình, góp ý cho mình, nhắc nhở mình về những điều mình đã hứa. Người cán bộ cũng phải biết tránh căn bệnh hình thức, bệnh “hữu danh, vô thực”, chạy theo những thứ hào nhoáng bên ngoài.
Vì vậy, cán bộ đoàn cần nêu gương trên ba mối quan hệ: với mình, với người, với việc. Đối với mình phải không tự cao tự đại, tự mãn, kiêu ngạo, luôn học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân; phải tự phê bình mình như rửa mặt hằng ngày. Đối với người, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc, khoan dung, độ lượng. Đối với việc, dù trong hoàn cảnh nào cũng phải giữ nguyên tắc “dĩ công vi thượng”, đặt việc công lên trên, lên trước việc tư.
Trong gia đình, người cán bộ đoàn phải là tấm gương. Trong cơ quan, tổ chức thì cán bộ lãnh đạo là tấm gương cho cấp dưới, người cán bộ đoàn này có thể nêu gương cho người cán bộ đoàn khác. Trong cuộc sống hằng ngày, người cán bộ đoàn phải có trách nhiệm tự tu dưỡng tốt để trở thành người có đời tư trong sáng, làm tấm gương giúp đoàn viên, thanh niên nhìn vào đó mà noi theo, qua đó mà làm tăng thêm những điều đúng, điều thiện, chống lại thói hư, tật xấu.
Trong công việc, cán bộ đoàn phải luôn luôn nêu gương về tinh thần phục vụ thanh thiếu nhi. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm phục vụ nhân dân từ một triết lý sâu xa rằng, cơm chúng ta ăn, áo chúng ra mặc đều do mồ hôi, nước mắt của dân mà ra, nên chúng ta phải đền bù xứng đáng cho dân. Vì vậy mà cán bộ đoàn phải xông xáo, nhiệt tình, trách nhiệm, tiên phong, gương mẫu, sâu sát cơ sở và dám chịu trách nhiệm cả về lời nói và việc làm.
Tóm lại, cán bộ đoàn cần học tập Chủ tịch Hồ Chí Minh để giữ được phong cách sinh hoạt giản dị, lành mạnh, trong sạch, vì nước, vì dân, không vụ lợi, chịu đựng gian khó vì nghĩa lớn, vì cái chung của mọi người. Thiết thực nhất là làm chủ mọi hành vi của bản thân trong mọi công việc, thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, cán bộ đoàn sẽ tránh được sự sa ngã, cám giỗ của vật chất, quyền lực, tư lợi, biết cái đủ và biết điểm dừng, không rơi vào chủ nghĩa cá nhân./.
THEO DÒNG LỊCH SỬ - NGÀY NÀY NĂM ẤY
- 01/12/1988: Ngày Thế giới phòng chống HIV/AIDS
- 03/12/1908: Ngày sinh đồng chí Ngô Gia Tự
- 19/12/1946: Ngày toàn quốc kháng chiến.
- 20/12/1960: Ngày thành lập Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.
- 22/12/1944: Ngày Thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam.
- 22/12/1989: Ngày Hội quốc phòng toàn dân.
19 - 12 - 1946: NGÀY TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN
Trong tình thế hiểm nghèo của đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã sáng suốt phân tích tình hình, đánh giá đúng âm mưu, hành động và khả năng của các thế lực đế quốc, xác định đường lối Kháng chiến kiến quốc, vừa kháng chiến chống xâm lược, vừa xây dựng chế độ mới. Trước âm mưu, thủ đoạn xâm lược, can thiệp trắng trợn của đế quốc và tương quan lực lượng bất lợi cho ta, chúng ta cần hòa bình để xây dựng nước nhà, Đảng ta đã thực hiện chính sách hòa hoãn. Với thực dân Pháp là kẻ thù chính, ta ký Hiệp định sơ bộ ngày 6-3-1946 và Tạm ước 14-9-1946. Thực hiện thành công sách lược đúng đắn đó, ta đã giữ vững và củng cố chính quyền cách mạng, đuổi quân Tưởng cùng bọn tay sai về nước, tranh thủ thời gian hòa hoãn để chuẩn bị lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài.
Bội ước Hiệp định sơ bộ ngày 6/3/1946 và Tạm ước ngày 14/9/1946, thực dân Pháp đã tấn công các phòng tuyến của quân ta ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
Quân Pháp nắm quyền kiểm soát thuế quan ở Hải Phòng, nhanh chóng làm chủ Hải Phòng, đẩy quân đội Việt Nam ra khỏi thành phố. Cùng với việc đánh chiếm Hải Phòng, quân Pháp cũng tiến công đánh chiếm Lạng Sơn và chuẩn bị kế hoạch đánh chiếm vào cơ quan đầu não của ta ở Thủ đô Hà Nội.
Quân đội Pháp đã liên tiếp nổ súng, ném lựu đạn vào nhiều nơi ở Hà Nội trong các ngày 15, 16 tháng 12-1946. Ngày 17-12, quân Pháp cho xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, đặc biệt chúng đã gây ra vụ tàn sát đẫm máu ở phố Hàng Bún và phố Yên Ninh.
Ngày 18-12-1964, tướng Morlière gửi cho ta tối hậu thư đòi chiếm đóng Sở Tài chính, đòi ta phải phá bỏ mọi công sự và chướng ngại trên các đường phố, đòi để cho chúng làm nhiệm vụ giữ gìn trị an ở Hà Nội. Ngọn lửa chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp bùng cháy trên toàn quốc là điều không thể tránh được nữa vì Pháp quyết định sẽ châm ngòi vào ngày 20-12-1946.
Tình thế khẩn cấp đòi hỏi Đảng, Nhà nước - đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh phải có một sự chọn lựa lịch sử, phải kịp thời có một quyết định chiến lược để chuyển xoay vận nước đang lâm nguy.
Ngày 17-12-1946, Hội đồng Chính phủ đã họp với sự có mặt của Trưởng ban thường trực Quốc hội Bùi Bằng Đoàn, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp đã báo cáo tình hình quân sự diễn ra ở Hải Phòng, Lạng Sơn, Đà Nẵng cùng âm mưu mở rộng chiến tranh ở Hà Nội và các nơi khác của thực dân Pháp.
Ngày 18 và 19-12-1946 tại Vạn Phúc, Hà Đông, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng do Hồ Chí Minh chủ trì, đã quyết định phát động cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trên phạm vi cả nước và đề ra đường lối, chủ trương kháng chiến của Đảng.
Chiều 19-12, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Võ Nguyên Giáp đã quyết định chuyển đến các đơn vị lực lượng vũ trang mật lệnh về ngày giờ của cuộc giao chiến trong toàn quốc. Tổng chỉ huy Võ Nguyên Giáp đã công bố mệnh lệnh chiến đấu, hạ lệnh cho toàn thể các lực lượng vũ trang phải nhất tề đứng dậy, phải xông tới mặt trận giết giặc cứu nước; chính thức phát lệnh cho các chiến trường nổ súng đồng loạt.
Chấp hành mệnh lệnh chiến đấu, đúng 20 giờ ngày 19-12-1946, công nhân nhà máy đèn Bờ Hồ phá máy, đèn điện toàn thành phố phụt tắt. Quân dân thủ đô Hà Nội đã nổ súng mở đầu cuộc kháng chiến trong toàn quốc. Giờ cứu nước đã đến! Pháo của ta từ Láng, từ Xuân Tảo trút căm hờn vào đầu giặc Pháp đóng ở trong thành. Các chiến lũy được củng cổ vững chắc. Cây bị chặt đổ, cột đèn bị ngả xuống, các toa xe điện nằm chắn ngang đường. Trong khói lửa mù mịt, nhân dân Hà Nội người nào việc nấy, dốc sức cho cuộc chiến đấu với quân thù.
Giặc Pháp cho xe bọc sắt và bộ binh đến đánh úp đơn vị quân ta đóng ở trụ sở liên lạc Việt-Pháp. Với tinh thần “quyết tử để cho Tổ Quốc quyết sinh”, quân dân Thủ đô đã chiến đấu vô cùng dũng cảm, ngăn chặn bước tiến của chúng. Những đoàn xe của Pháp từ trong thành ra vấp phải chướng ngại vật trên đường phố, di chuyển rất chậm chạp. Lợi dụng thời cơ đó, tự vệ cùng nhân dân từ trên gác cao quăng giường tủ xuống đường, ném lựu đạn, lao bom, nã súng như đổ lửa vào đầu giặc. Ở nhà máy đèn Bờ Hồ, trong chớp nhoáng, công nhân cùng bộ đội đã diệt toàn bộ quân địch đóng ở đây, không để một tên sống sót. Ở Bắc Bộ phủ, trụ sở của Chính quyền Bắc kỳ khi đó (nay là Nhà khách Chính Phủ, số 12 Ngô Quyền), chiến sĩ ta chiến đấu ngoan cường suốt đêm đến sáng. Các quyết tử quân ôm bom ba càng lao vào phá hủy chiến xa địch. Hàng loạt bom, lựu đạn từ các cửa sổ tung xuống đầu giặc, làm cho chúng khiếp vía. Hơn 20 nam nữ công nhân nhà Bưu điện Bờ Hồ cùng đơn vị Vệ quốc đoàn ở đó đánh lui nhiều đợt tấn công của địch. Trong suốt một ngày, địch không thể nào chiếm nổi nhà bưu điện, quân ta tiêu diệt 122 người, 2 xe tăng, 2 xe vận tải, 1 xe zíp. Trận đánh ở đầu cầu Long Biên đã diệt 70 tên địch, phá hủy 4 xe tăng, 2 xe vận tải. Nhiều trận giao chiến quyết liệt diễn ra ở nhà máy Yên Phụ, đầu phố Hàng Lọng (đường Nam Bộ), ga Hàng Cỏ, Đồn Thủy, Phà Đen, trường Bưởi (nay là trường Chu Văn An), nhà máy bia...
Ngày đầu tiên của cuộc kháng chiến trường kỳ đã diễn ra ở Hà Nội như vậy. Tại các thành phố khác, cuộc kháng chiến chống Pháp cũng bùng nổ vào đêm 19 tháng 12. Cuộc chiến đấu anh dũng của quân dân ta đã giam chân địch, ngăn chặn bước tiến của chúng, tạo thời cơ thuận lợi cho việc chuẩn bị kháng chiến lâu dài.
Ngay giữa lúc tiếng súng kháng chiến toàn quốc đang rền vang ở Hà Nội và trên toàn quốc, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh được truyền đi khắp cả nước qua Đài phát thanh. Người kêu gọi:
“Hỡi đồng bào toàn quốc!
Chúng ta muốn hoà bình. Chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng thực dân Pháp càng lấn tới vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa!
Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào!
Chúng ta phải đứng lên!
Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước.
Hỡi anh em binh sĩ, tự vệ, dân quân!
Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, để giữ gìn đất nước.
Dù phải gian lao kháng chiến, nhưng với một lòng kiên quyết hy sinh, thắng lợi nhất định về dân tộc ta.
Việt Nam độc lập và thống nhất muôn nǎm!
Kháng chiến thắng lợi muôn nǎm!”
Bút tích Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 19-12-1946. (Ảnh chụp Bảo vật quốc gia hiện lưu tại BTLSQG).
Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tiếng gọi của non sông đất nước, khơi dậy mạnh mẽ chủ nghĩa dân tộc, truyền thống anh hùng bất khuất, làm cho cả nước đứng lên chiến đấu bằng sức mạnh của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ của người Việt Nam với mọi thứ vũ khí có sẵn, với một ý chí “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, một thái độ chính trị dứt khoát và kiên định: “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.
Có thể nói, ngày toàn quốc kháng chiến 19/12/1946 đã thể hiện sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, bám sát tình hình thực tiễn, nắm vững thời cơ, chọn đúng mặt trận chính, tính toán thời điểm nổ súng chính xác, biến bị động thành chủ động, tạo nên thế trận mới cho mặt trận Hà Nội có điều kiện giam chân quân địch hai tháng, để cả nước chuyển vào kháng chiến trường kỳ. Việc nổ súng phát động toàn quốc kháng chiến ngày 19/12 giữa Thủ đô là một trường hợp hiếm thấy trong lịch sử, thể hiện một nghệ thuật khởi đầu cuộc chiến tranh cách mạng thật đúng đắn, quả cảm và sáng tạo.
72 năm đã trôi qua nhưng khí thế hào hùng của những ngày đầu toàn quốc kháng chiến đã trở thành ngày lịch sử, là dấu son chói lọi trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ. Trải qua bao biến cố thăng trầm của thời gian, nhưng giá trị lịch sử của “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” luôn là kim chỉ nam cho mọi hành động cách mạng của toàn thể nhân dân Việt Nam, cổ vũ, hiệu triệu quốc dân đồng bào kề vai sát cánh, chung sức đồng lòng, đoàn kết nhất trí đánh giặc, giữ nước, giành lại độc lập, tự do, thống nhất cho Tổ quốc.
Nguồn: Bảo tàng lịch sử quốc gia
LỊCH SỬ VÀ Ý NGHĨA NGÀY THÀNH LẬP
QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM 22/12
22/12 không chỉ là ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam mà đã trở thành Ngày hội Quốc phòng toàn dân - Một ngày kỷ niệm đầy ý nghĩa đối với toàn thể nhân dân Việt Nam.
Tên gọi “Quân đội nhân dân” là do Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt với ý nghĩa “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân phục vụ”.
Tháng 12-1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh ra chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân. Chỉ thị nhấn mạnh: "Tên Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân nghĩa là chính trị quan trọng hơn quân sự. Nó là đội tuyên truyền..., đồng thời nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc..."
Ngày 22-12-1944, tại khu rừng thuộc huyện Nguyên Bình (Cao Bằng), Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã chính thức làm lễ thành lập, gồm 3 tiểu đội với 34 chiến sĩ được lựa chọn từ những chiến sĩ Cao-Bắc-Lạng, do đồng chí Võ Nguyên Giáp trực tiếp chỉ huy. Đây là đơn vị chủ lực đầu tiên của lực lượng vũ trang cách mạng và là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân do đồng chí Hoàng Sâm làm đội trưởng, đồng chí Xích Thắng (Dương Mạc Thạch) làm chính trị viên, đồng chí Hoàng Văn Thái phụ trách Kế hoạch-Tình báo, đồng chí Vân Tiên (Lộc Văn Lùng) quản lý. Đội có chi bộ Đảng lãnh đạo.
Chỉ có 34 người, với 34 khẩu súng các loại nhưng đó là những chiến sĩ kiên quyết, dũng cảm trong các đội du kích Cao-Bắc-Lạng, Cứu quốc quân,... là con em các tầng lớp nhân dân bị áp bức, họ có lòng yêu nước, chí căm thù địch rất cao, đã siết chặt họ thành một khối vững chắc, không kẻ thù nào phá vỡ nổi. Sau lễ thành lập, đội tổ chức một bữa cơm nhạt không rau, không muối để nêu cao tinh thần gian khổ của các chiến sĩ cách mạng, đội tổ chức “đêm du kích” liên hoan với đồng bào địa phương để thắt chặt tình đoàn kết quân dân.
Chấp hành chỉ thị “phải đánh thắng trận đầu”, ngay sau ngày thành lập, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã mưu trí, táo bạo, bất ngờ đột nhập vào đồn Phai Khắt (17 giờ chiều 25-12-1944) và sáng hôm sau (7 giờ ngày 26-12-1944) đột nhập đồn Nà Ngần, tiêu diệt gọn 2 đồn địch, giết chết 2 tên đồn trưởng, bắt sống toàn bộ binh lính, thu toàn bộ vũ khí, quân trang, quân dụng.
Hai trận đánh đồn Phai Khắt, Nà Ngần thắng lợi đã mở đầu truyền thống đánh tiêu diệt, đánh chắc thắng, đánh thắng trận đầu của quân đội ta suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cho đến ngày thắng lợi hoàn toàn.
Từ ngày thành lập, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân luôn phát triển và trưởng thành. Ngày 22-12-1944 được xác định là ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, đánh dấu sự ra đời của một tổ chức quân sự mới của dân tộc ta. Một quân đội của dân, do dân, vì dân; luôn gắn bó máu thịt với dân, luôn luôn được dân tin yêu, đùm bọc.
Lịch sử 62 năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành của quân đội ta gắn liền với lịch sử đấu tranh anh dũng của dân tộc. Một đội quân được Đảng và Bác Hồ rèn luyện, đã từng là những đội tự vệ đỏ trong cao trào Xô Viết-Nghệ Tĩnh, đội du kích Bắc Sơn, Nam Kỳ, Ba Tơ, Cao Bắc Lạng, Cứu quốc quân đến Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân. Một đội quân lớp lớp cán bộ, chiến sĩ đã nối tiếp nhau bao thế hệ cầm súng chiến đấu, cùng toàn dân đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược hung bạo, giành lại độc lập thống nhất và bảo vệ vững chắc bờ cõi thiêng liêng của Tổ quốc Việt Nam XHCN và làm tròn nghĩa vụ quốc tế vẻ vang đối với cách mạng hai nước Lào và Cam-pu-chia anh em.
Năm 1989, theo chỉ thị của Ban bí thư Trung ương Đảng và quyết định của Chính phủ, ngày 22-12 hàng năm không chỉ là ngày kỷ niệm thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam mà còn là ngày Hội quốc phòng toàn dân. Từ đó, mỗi năm, cứ đến ngày này, toàn dân Việt Nam lại tiến hành các hoạt động hướng vào chủ đề quốc phòng và quân đội, nhằm tuyên truyền sâu rộng truyền thống đánh giặc giữ nước của dân tộc và phẩm chất Bộ đội Cụ Hồ, giáo dục lòng yêu nước, yêu CNXH, động viên mọi công dân chăm lo củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc. Các hoạt động như mít tinh, hội thảo, hội nghị đoàn kết quân dân, giáo dục truyền thống, biểu diễn văn nghệ, đại hội thanh niên, thi đấu thể thao, hội thao quân sự,... được diễn ra ở khắp làng, xã, cơ quan đoàn thể, cơ sở đơn vị...
Những hoạt động của ngày hội như vậy nhằm động viên cán bộ, chiến sĩ không ngừng nâng cao cảnh giác, ra sức rèn luyện bản lĩnh chính trị và trình độ quân sự, không ngại gian khổ, vượt qua khó khăn, trong mọi hoàn cảnh để hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Phát huy thành tích to lớn đã đạt được trong 70 năm qua, Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; tham gia xây dựng kinh tế đất nước và thực hiện tốt hơn chức năng làm nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, góp phần xây dựng thành công và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; bảo vệ hòa bình, ổn định, phát triển trong khu vực và trên thế giới, xứng đáng với tên gọi: Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.
Nguồn: https://www.uel.edu.vn
SỔ TAY NGHIỆP VỤ
Trong tài liệu sinh hoạt Chi đoàn số 12/2018, chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên Kế hoạch tổ chức Lễ phát động Chương trình Tình nguyện mùa đông năm 2018, Xuân tình nguyện năm 2019 và Ngày hội “Tôi yêu tổ quốc tôi” chào mừng kỷ niệm 15 năm thành lập tỉnh Đắk Nông:
KẾ HOẠCH
Tổ chức Lễ phát động Chương trình Tình nguyện mùa đông năm 2018,
Xuân tình nguyện năm 2019 và Ngày hội “Tôi yêu tổ quốc tôi”
chào mừng kỷ niệm 15 năm thành lập tỉnh Đắk Nông
--------
Thực hiện Chương trình công tác Đoàn, công tác Hội năm 2018; thực hiện Kế hoạch số 68 - KH/TU ngày 16/4/2018 của Tỉnh ủy Đắk Nông về việc “Tổ chức các hoạt động hướng tới kỷ niệm 15 năm thành lập tỉnh Đắk Nông 01/01/2004 - 01/01/2019"; Kế hoạch phối hợp số 16/KHPH-TĐTN-BCHBP giữa Ban Thường vụ Tỉnh đoàn và Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng "V/v phối hợp vận động quyên góp mua cờ Tổ quốc tặng các hộ gia đình tại các xã biên giới", Ủy ban Hội LHTN Việt Nam tỉnh Đắk Nông triển khai Kế hoạch tổ chức đồng loạt Lễ phát động Lễ phát động Chương trình Tình nguyện mùa đông năm 2018, Xuân tình nguyện năm 2019 và Ngày hội “Tôi yêu tổ quốc tôi” chào mừng kỷ niệm 15 năm thành lập tỉnh Đắk Nông, cụ thể như sau:
- MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU
- Thông qua các hoạt động đẩy mạnh triển khai phong trào “Tôi yêu tổ quốc tôi” của Hội LHTN Việt Nam; nêu cao tinh thần yêu quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc trong các tầng lớp thanh niên trên địa bàn tỉnh.
- Tăng cường giáo dục truyền thống cách mạng, lòng yêu nước, lòng tự hào dân tộc, nêu cao trách nhiệm, phát huy vai trò xung kích của tuổi trẻ trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nêu cao tinh thần xung kích tình nguyện vì an sinh xã hội, vì cuộc sống cộng đồng.
- Tổng kết và tặng cờ Tổ quốc cho các hộ dân trên địa bàn xã biên giới; phát động đoàn viên, thanh thiếu nhi thi đua học tập, lao động, sản xuất lập thành tích chào mừng kỷ niệm 15 năm thành lập tỉnh Đắk Nông.
- Ngày hội được tổ chức đồng loạt, thiết thực, hình thức sinh động, sáng tạo, có trọng tâm, thu hút nhiều tầng lớp thanh niên tham gia, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các đơn vị, các lực lượng.
- THỜI GIAN - ĐỊA ĐIỂM
- Tổ chức đồng loạt tại 01 xã biên giới của các huyện Cư Jút, Tuy Đức, Đắk Song (xã do các Huyện đoàn chọn) và xã Đắk Lao, huyện Đắk Mil vào thứ bảy, ngày 29/12/2018.
- Cấp tỉnh: Tổ chức Ngày hội tại xã Đắk Lao, huyện Đắk Mil.
III. NỘI DUNG VÀ CÁCH THỨC TIẾN HÀNH
- Khung nội dung chương trình
- Chương trình văn nghệ: các bài hát, múa, đồng diễn...ca ngợi quê hương đất nước, con người, Tổ quốc Việt Nam.
- Nghi lễ chào cờ theo nghi thức Hội LHTN Việt Nam.
- Tuyên bố lý do giới thiệu đại biểu.
- Phát biểu của Thường trực huyện Đoàn.
- Tặng cờ Tổ quốc cho các hộ dân trên địa bàn xã biên giới.
- Phát động Chương trình "Tình nguyện mùa đông năm 2018, Xuân tình nguyện 2019": Căn cứ điều kiện, khả năng tổ chức một số các hoạt động như: Khám bệnh phát thuốc miễn phí cho người dân; hiến máu tình nguyện, tổ chức tặng quà, học bổng, chăn, áo ấm, vệ sinh, cắt tóc, tặng nhà tình nghĩa, ra quân dọn vệ sinh môi trường, trồng cây xanh…vv.
- Tổ chức các hoạt động vui chơi như: trò chơi dân gian, các gian hàng trò chơi có thưởng cho thanh thiếu nhi; các hoạt động thể hiện tình yêu quê hương đất nước như: xếp hình đất nước, cờ tổ quốc, cờ Đảng, cờ Đoàn, Hội...
(có hướng dẫn chung về phông sân khấu)
- Cách thức tiến hành
Các đơn vị: Đắk Mil, Đắk Song, Cư Jút, Tuy Đức chủ trì đăng cai tổ chức; các Huyện, Thị đoàn, Đoàn trực thuộc và các CLB, đội, nhóm phối hợp tổ chức cụ thể như sau:
- Tại xã Đắk Lao, Đắk Mil: Tỉnh đoàn, Hội LHTN tỉnh; Bộ Chỉ huy, Đoàn thanh niên Bộ đội Biên phòng tỉnh; huyện đoàn Đắk Mil, CLB Nguyện Tâm Đắk Mil.
- Tại huyện Cư Jút: Huyện đoàn Cư Jút, Krông Nô, Đoàn thanh niên BCH Quân sự tỉnh, Nhóm Vòng tay nhân ái Đắk Nông (Chị Ly Na ĐT 0931624848).
- Tại huyện Đắk Song: Huyện đoàn Đắk Song, Đoàn khối Doanh nghiệp tỉnh, Đoàn khối CCQ tỉnh, CLB Sức trẻ Đắk Song, CLB Hành trình yêu thương (anh Ngô Trung ĐT: 0979.3601.86).
- Tại huyện Tuy Đức: Huyện đoàn Tuy Đức, Đắk R'Lấp, Đắk Glong, Thị đoàn Gia Nghĩa, Đoàn TN Công an tỉnh, CLB Nắng yêu thương (anh Thiên Hải, ĐT 0987645047)
- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
- Tỉnh đoàn - Hội LHTN Việt Nam tỉnh
- Xây dựng Kế hoạch tổ chức đồng loạt Lễ phát động Chương trình Tình nguyện mùa đông năm 2018, Xuân tình nguyện năm 2019 và Ngày hội “Tôi yêu tổ quốc tôi” chào mừng kỷ niệm 15 năm thành lập tỉnh Đắk Nông; phối hợp với các cơ quan báo, đài tuyên truyền, phản ánh các hoạt động của Ngày hội.
- Giao Ban Đoàn kết tập hợp thanh niên và Ban Tuyên giáo Tỉnh đoàn là đơn vị thường trực: Tham mưu xây dựng kế hoạch, giúp Ban Thường vụ Tỉnh đoàn, Hội LHTN Việt Nam tỉnh chỉ đạo, đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra việc triển khai kế hoạch trên địa bàn tỉnh; là đầu mối, phối hợp với Huyện đoàn Đắk Mil tham mưu tổ chức Ngày hội cấp tỉnh tại xã Đắk Lao; tham mưu về tổng thể chương trình, dự toán kinh phí, vận động tài trợ hoạt động Ngày hội.
- Các ban, đơn vị Tỉnh đoàn: chịu trách nhiệm theo dõi hoạt động của các huyện, các đơn vị trong cụm phụ trách; đôn đốc, chỉ đạo các đơn vị tham gia tích cực, trách nhiệm theo phân công của Ban Thường vụ Tỉnh đoàn.
- Đoàn thanh niên Bộ Chỉ huy Bộ Đội Biên phòng tỉnh
- Phối hợp triển khai Kế hoạch tổ chức đồng loạt Lễ phát động Chương trình Tình nguyện mùa đông năm 2018, Xuân tình nguyện năm 2019 và Ngày hội “Tôi yêu tổ quốc tôi” chào mừng kỷ niệm 15 năm thành lập tỉnh Đắk Nông
- Chỉ đạo các chi đoàn đồn Biên phòng trên địa bàn tỉnh:
- Phối hợp với các Huyện đoàn trên địa bàn đóng chân tổ chức Ngày hội.
- Phối hợp lựa chọn các hộ gia đình tại các xã biên giới để trao tặng cờ Tổ quốc và quà.
- Chuẩn bị các phần quà tặng trong chương trình (nếu có).
- Mời lãnh đạo, chiến sỹ tham dự Ngày hội.
- Các Huyện, Thị đoàn, Đoàn trực thuộc
- Các huyện đoàn Đắk Mil, Đắk Song, Cư Jút, Tuy Đức: Chủ trì đăng cai, chủ động tham mưu Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện quan tâm chỉ đạo tổ chức Ngày hội. Chuẩn bị địa điểm, cơ sở vật chất, lực lượng tham gia, các điều kiện đảm bảo; phối hợp với các cơ quan báo, đài, mạng xã hội để tuyên truyền, phản ánh các hoạt động của Ngày hội. Chủ động kêu gọi, vận động các nguồn lực, rà soát các đối tượng cần hỗ trợ, phối hợp với các ban, đơn vị Tỉnh đoàn, các Đồn Biên phòng đóng chân trên địa bàn và các đơn vị tăng cường để phối hợp tổ chức thành công Ngày hội.
- Thị đoàn Gia Nghĩa, Huyện đoàn Krông Nô, Đắk R'lấp, Đắk Glong và các Đoàn trực thuộc: Tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong đoàn viên thanh niên, trên các kênh thông tin đại chúng về Ngày hội; hoàn thành việc quyên góp tặng cờ Tổ quốc; phối hợp chặt chẽ, trách nhiệm với đơn vị đăng cai trong việc cử đoàn tham gia, kêu gọi vận động các nguồn lực, quà tặng cho bà con nhân nhân có hoàn cảnh khó khăn tại Ngày hội.
Các đơn vị gửi Kế hoạch tổ chức, tham gia Ngày hội gửi về Tỉnh đoàn (qua Ban Đoàn kết tập hợp thanh niên Tỉnh đoàn) trước ngày 14/12/2018; sau hoạt động, báo cáo kết quả Ngày hội (các hoạt động, thời gian, địa điểm tổ chức, mô tả hoạt động, kết quả) gửi về trước ngày 02/01/2019.
- Các CLB, đội, nhóm trực thuộc
- Kêu gọi vận động các nguồn lực, quà tặng cho bà con nhân nhân có hoàn cảnh khó khăn, cử thành viên tham gia theo kế hoạch.
Trên đây là Kế hoạch tổ chức đồng loạt Lễ phát động Chương trình Tình nguyện mùa đông năm 2018, Xuân tình nguyện năm 2019 và Ngày hội “Tôi yêu tổ quốc tôi” chào mừng kỷ niệm 15 năm thành lập tỉnh Đắk Nông của Ban Thư ký Uỷ ban Hội LHTN Việt Nam tỉnh.
BÀI HÁT THANH NIÊN
Chúng tôi xin gửi đến các bạn đoàn viên thanh niên lời bài hát:
Vì Nhân dân quên mình
Sáng tác: Doãn Quang Khải
Vì nhân dân quên mình vì nhân dân hy sinh
Anh em ơi vì nhân dân quên mình
Đoàn Vệ quốc chúng ta ở nhân dân mà ra
Được dân mến được dân tin muôn phần
Thề vì dân suốt đời thề tranh đấu không ngừng
Vì đất nước thân yêu mà hy sinh
Thề diệt hết đế quốc kia giành tự do hòa bình
Đoàn Vệ quốc quên mình vì nhân dân
Thề noi gương Bác Hồ vì nhân dân gian lao
Trong bao năm Người tranh đấu không ngừng
Người chỉ biết có dân ngày ngày lo
Sao cho toàn dân ấm toàn dân no được học hành
Người chỉ vui khi nào toàn dân hết đau thương
Người tranh đấu đem tương lai về cho dân
Đoàn Vệ quốc chúng ta là con yêu của Người
Thề noi gương suốt đời vì nhân dân.
Ban TC-KT Tỉnh đoàn (t/h)
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.332.
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.463.
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.6, tr.123.
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.463.
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr. 297.
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.28.
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.636.
[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.171.
[9] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.327.